Với quan niệm “Vạn vật hữu linh” – mọi vật đều có linh
hồn – cũng như các dân tộc khác, người Tày, Nùng quan niệm con người ta có cả
phần xác và phần hồn. Phần thể xác mất đi nhưng phần linh hồn vẫn luôn hiện
diện và chi phối đến đời sống của con người. Do sự ảnh hưởng của Đạo giáo nên người
Tày, Nùng cũng cho rằng con người có 3 hồn 7 vía (với nam giới) và 3 hồn 9 vía
(với nữ giới). Khi con người chết đi thì những hồn này sẽ được trở về những nơi
khác nhau. Trong đó, hồn thứ nhất về với ông bà tổ tiên, hồn thứ hai đi luân
hồi chuyển kiếp và hồn thứ ba ngự tại mộ phần[1]. Vì mộ phần là nơi trú ngụ
của linh hồn tổ tiên và là sự hiện diện của các thế hệ tiền nhân nơi trần thế
nên người Tày, Nùng luôn quan tâm và chăm sóc chu đáo mộ phần của tiên tổ. Với
người Tày, Nùng, việc để mất mộ là một trong những tội lỗi rất lớn. Sự quan tâm
đến mộ phần tổ tiên của người Tày, Nùng thể hiện rõ ở tục lệ tảo mộ hàng năm.
Tùy từng vùng miền mà
người Tày, Nùng lại quy định thời gian tảo mộ khác nhau. Nhiều vùng đồng bào đi
tảo mộ vào tháng ba âm lịch nhưng cũng có vùng lại đi vào tháng Chạp. Trong đó,
tục lệ tảo mộ vào tháng ba phổ biến ở hầu hết các vùng có người Tày, Nùng cư
trú. Đồng bào quan niệm, khi đất trời chuyển sang tháng ba thì thời tiết cũng
bắt đầu có những cơn mưa lớn gây ảnh hưởng tiêu cực đến phần mộ của ông bà tổ
tiên. Nếu phần mộ của ông bà bị cây cối che phủ um tùm, bị xuống cấp, sạt lở
thì con cháu cũng vô cùng lo lắng và áy náy. Do vậy, đồng bào thường tổ chức đi
tảo mộ nhằm mục đích phát quang cây cỏ và gia cố lại cho ngôi mộ thêm chắc
chắn. Phong tục tảo mộ được người Tày, Nùng gọi là "slại mả". Ngoài ý nghĩa sửa sang lại mộ phần thì phong tục tảo
mộ còn thể hiện tình yêu thương và trách nhiệm của người sống với người đã
khuất. Do tiết thanh minh thường rơi vào tháng ba nên tục đi tảo mộ thường bị
gọi nhầm lẫn là đi thanh minh.
.
Trước đây, người Tày,
Nùng thường quy định thời gian đi tảo mộ phải vào các ngày 3 trong tháng (mùng 3,
13, 23)[2]. Trong đó, người Nùng đi
tảo mộ vào đúng ngày 3 tháng 3. Người Nùng quan niệm, tục tảo mộ không phụ
thuộc vào tiết thanh minh nên nếu ngày 3 tháng 3 mà chưa đến thanh minh thì
đồng bào vẫn đi tảo mộ. Ngày nay, do quan niệm phải đến tiết thanh minh thì cửa mả[3]
mới mở cho các cụ lên trần gian nên nhiều nhà thường lựa chọn ngày tảo mộ vào
sau tiết thanh minh chứ không nhất định phải là các ngày 3 trong tháng như
trước đây. Ngoài ra, do ảnh hưởng của thời gian học tập, lao động và công tác
tại các công sở, cơ quan, xí nghiệp nên ngày tảo mộ cũng có sự thay đổi nhằm
đáp ứng được công việc của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên đồng bào
không bao giờ để ngày tảo mộ quá tháng 3 âm lịch. Đối với những ngôi mộ mới mà
người nằm dưới mộ vẫn chưa cắt tang thì người ta thường tảo mộ trước tiết thanh
minh.
Để việc tảo mộ tiến
hành thuận lợi thì từ tháng 2 âm lịch, các thành viên trong gia đình đã liên
lạc với nhau để thống nhất về thời gian cũng như chuẩn bị các phương tiện, vật
chất. Do mộ phần là sự hiện hữu của ông bà, cha mẹ nên với người Tày, Nùng,
việc đi tảo mộ mang ý nghĩa báo hiếu rất lớn. Vì vậy dù ở xa đến mấy thì con
cháu cũng cố gắng thu xếp công việc để về thắp hương và thăm lại nơi an nghỉ của
tiên tổ. Theo tục lệ truyền thống thì người ta sẽ đi tảo mộ ở những ngôi mộ mới
trước rồi mới đi các mộ cũ. Nhiều gia đình do chưa có nghĩa trang riêng, mộ các
cụ rải rác ở nhiều nơi thì việc đi tảo mộ có khi phải mất đến vài ngày.
Trước khi đi tảo mộ, người
ta phải chuẩn bị sẵn các phương tiện như dao phát, cuốc, xẻng, liềm để dọn dẹp
và phát quang mộ. Bên cạnh đó, đồng bào còn chuẩn bị hương, vàng, nến, rượu và
các lễ vật để cúng cho người dưới mộ. Các lễ vật thường có lễ tam sinh (gà
luộc, thịt lợn luộc, cá rán hoặc trứng luộc), bánh, kẹo, hoa quả, xôi. Với
những khu mộ lớn, đồng bào còn quay cả lợn để cúng. Đặc biệt, trong các món lễ
vật dâng cúng không thể thiếu món xôi ngũ sắc và bánh ngải. Xôi ngũ sắc được
làm từ gạo nếp cái hoa vàng ngâm với các loại củ và lá cây tự nhiên để tạo màu
(màu vàng từ củ nghệ, màu đỏ từ lá cẩm đỏ, màu tím, màu xanh nhạt từ cây cẩm
tím, màu trắng là màu tự nhiên của gạo nếp). Bánh ngải được làm từ gạo nếp giã
với lá ngải (lá ngải được luộc nhiều lần với nước vôi trong để khử vị ngái)
nhân lạc - đường hoặc vừng – đường. Đây là hai món ăn đặc trưng của ngày lễ
thanh minh – tảo mộ và là đặc sản của ẩm thực Tày, Nùng.
Khi đến mộ, việc đầu
tiên cần phải làm đó là thắp hương để xin các vị thần linh và người dưới mộ cho
phép được phát quang, sửa sang mộ. Trước đây khi chưa cấm pháo, người ta thường
đốt một băng pháo tép để tạo ra âm thanh vui tươi, ròn rã nhằm báo hiệu sự có
mặt của con cháu tại nơi an táng ông bà, tổ tiên và xua tan đi sự âm u của
nghĩa trang. Sau đó, người ta bắt đầu phát các loại cây cỏ bám xung quanh mộ,
sửa lại đường rãnh dẫn nước quanh mộ và kè lại bờ để tránh mộ bị nước chảy làm
xói mòn. Cuối cùng, mộ được đắp lên một lớp đất mới để trông sáng sủa và to đẹp
hơn. Người Tày, Nùng quan niệm mộ phần là nơi an nghỉ của ông bà nên rất cần có
sự yên tĩnh. Vì vậy, đồng bào chỉ lên mộ thắp hương khi có việc cần thiết. Đặc
biệt, trừ ngày tảo mộ vào tháng ba thì những ngày khác trong năm không được
phép động dao cuốc vào mộ.
.
Khi đã dọn dẹp xong
xuôi và ngôi mộ đã được đắp lớp đất mới đẹp đẽ thì đồng bào sẽ bày ra trước mộ
các lễ vật để cúng thần linh và vong linh người nằm dưới mộ. Thông qua làn khói
hương nghi ngút, các con cháu gửi lòng thành kính thỉnh mời các cụ về chứng
giám, phù hộ cho các con, các cháu ở trần gian được mạnh chân, khỏe tay và gặp
nhiều điều may mắn. Sau khi rót đủ ba tuần rượu, những tiền vàng, quần áo trên
mâm lễ sẽ được đem thiêu hóa. Với tinh thần bác ái, đồng bào cũng không quên
phát quang và thắp cho những ngôi mộ hoang vô chủ nén hương thơm để người nằm
dưới ấy bớt phần tủi nhục.
Sau khi hóa vàng, gia
đình sẽ thụ lộc ngay tại mộ. Việc thụ lộc tại mộ mang ý nghĩa nhân văn rất lớn
vì nó không chỉ là sự cộng cảm, cộng mệnh của những người đang sống mà còn là
sợi dây kết nối tâm linh giữa người sống với người đã khuất. Trước khi ăn,
người ta ném 1 chút thức ăn ra bốn phương nhằm mục đích cho các cô hồn không
nơi nương tựa đang lai vãng quanh đây cũng có miếng ăn. Bữa ăn tại mộ diễn ra
một cách vui vẻ và đầm ấm, át đi hẳn sự âm u thường ngày của nghĩa trang, của
núi rừng. Trong lúc ăn uống, người ta cũng không quên đem chén rượu đến mời
những nhà xung quanh cũng đang tảo mộ tạo nên không khí vui tươi và tăng thêm
tinh thần đoàn kết. Theo tục lệ truyền thống, người ta phải ăn hết tất cả các
lễ vật đem theo, không được phép để thừa. Nếu còn thức ăn thừa thì phải để lại
mộ chứ không được đem về.
Kết thúc buổi tảo mộ,
đồng bào cắm lên trên mộ một cây nêu được cắt bằng giấy bản theo hình những
đồng tiền xu. Cây nêu này mang những ý niệm như sau:
Thứ nhất: Việc cắm nêu
báo hiệu ngôi mộ này là ngôi mộ có chủ và đã được con cháu đến tảo mộ.
Thứ hai: Những đồng
tiền trên cây nêu là tài sản “để dành” của con cháu dâng người nằm dưới mộ.
Thứ ba: Cây nêu là vật
đánh dấu lãnh thổ và quyền sở hữu mộ phần của vong linh người ở dưới mộ. Đó là
sự nhắc nhở các vong linh, tà ma quỷ quái không được xâm phạm vào khu vực mộ.
Đối với những ngôi mộ
mà người nằm dưới mộ chưa được cắt tang thì không được cắm cây nêu trên mộ vì
mộ phần lúc này vẫn chưa thực sự thuộc quyền sở hữu của vong linh dưới mộ.
Tảo mộ tháng ba là tục
lệ đẹp và mang nhiều ý nghĩa. Nó thể hiện tính nhân văn và tinh thần trọng đạo
hiếu của người Tày, Nùng. Tục tảo mộ không chỉ là tấm lòng hiếu thuận của con
cháu đối với ông bà, cha mẹ mà còn là cơ hội để cố kết tình cảm giữa những
người thân trong gia đình. Vượt qua không gian tâm linh, tục lệ tảo mộ còn trở
thành lễ hội lớn của cộng đồng. Ngày nay, tục lệ tảo mộ tuy đã có nhiều sự thay
đổi về thời gian nhưng vẫn luôn được đồng bào trân trọng, gìn giữ và là nét đẹp
trong văn hóa truyền thống Tày, Nùng.
Trong tiết thanh minh
của buổi xưa xưa nào ấy, Thúy Kiều đã gặp Đạm Tiên - một nấm mồ "sè sè cỏ
mọc" - cuộc gặp trong suy tưởng, trong mây khói giữa thực và hư, giữa một
cô Thúy Kiều sắc nước hương trời hiện tại và một cô Đạm Tiên tài hoa tuyệt sắc
quá khứ. Biết đâu được rằng trong khói cuộn tàn hương và tro bay điêu tàn, hai
thân phận chìm nổi ấy lại gặp nhau.
[1]
Theo ông Nguyễn Văn Thọ - nghệ nhân thực hành then tại tỉnh Lạng Sơn.
[2]
Theo bà Đoàn Bích Khê, TTr Thất Khê, Tràng Định, Lạng Sơn
[3]
Nhiều người quan niệm thời gian mở cửa mả
bắt đầu từ tiết thanh minh cho đến tiết cốc vũ.